Gần Tết Giáp Ngọ năm 1954, tiểu đoàn trinh sát 426 chúng tôi bỗng được lệnh ăn tết sớm 1 ngày để chuẩn bị lên đường nhận nhiệm vụ đặc biệt. Ăn tết xong, đúng tối 30 tháng chạp, chúng tôi tập trung trên 1 quả đồi cọ, không có dân ở để nghe phổ biến nhiệm vụ. Đồng chí tiểu đoàn trưởng giới thiệu 1 đồng chí cán bộ Cục 2 trực tiếp phổ biến. Đồng chí cán bộ Cục 2 nói: Trung ương Đảng, Chính phủ đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, để giải phóng Tây Bắc của Tổ quốc. Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược của ta, nhưng các chiến trường khác cũng tiếp tục đẩy mạnh phối hợp, đều có liên quan tới nhiệm vụ của tiểu đoàn 426. Trên đã quyết định phân công nhiệm vụ các đồng chí như sau: Các đại đội 85, 86 khẩn trương hành quân ngay lên hướng Điện Biên Phủ, nhiệm vụ cụ thể sẽ phổ biến riêng sau. Đại đội 87 làm nhiệm vụ ở chiến trường phối hợp, phải chia nhỏ luồn sâu vào sau lưng địch thuộc các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang… nắm tình hình địch giúp lực lượng vũ trang tại chỗ đánh nghi binh. Nguyên tắc chung là phải tuyệt đối giữ bí mật.
Nghe phổ biến xong, các đơn vị chúng tôi đều sửa soạn hành quân ngay.
Ngày mùng 1 Tết, chúng tôi nghỉ ở Vũ Ẻn, bổ sung thêm các thứ cần thiết như muối, gạo, đá, lửa rồi lại tiếp tục hành quân. Bộ phận nào đi trước, đi sau đều phải giữ bí mật. Cứ thế, ngày nghỉ, đêm đi xuyên tắt rừng mà đi, gặp sông suối phải tìm cách vượt qua. Hôm cuối cùng của cuộc hành quân đã 8-9 giờ sáng mà sương mù vẫn chưa tan, căng mắt ra chỉ nhìn xa được 5-6 mét. Chúng tôi đã nghe tiếng súng nổ rất gần. Sương tan, qua ống nhòm chúng tôi thấy hàng rào thép gai đồn địch chỉ cách đó vài ba cây số. Chúng tôi tìm chỗ đào hầm, đẵn gỗ bắc đầm, đổ đất thật đầy, trồng cây ngụy trang, làm cửa và lỗ thông hơi thật thoáng. Đó là phân khu Hồng Cúm phía Nam Điện Biên Phủ.
Tiểu đội tôi được phân công bám sát, nắm tình hình địch ở sân bay xem chúng bố trí ụ súng, các trạm gác, đèn pha, pháo sáng, đi tuần tiểu thế nào, nơi lĩnh và sĩ quan ở để cung cấp thông tin cho sở chỉ huy. Những số liệu thu thập được đều phải ghi chép tỉ mỉ, báo cáo lên trên hàng ngày…
Càng về sau ta càng làm chủ sân bay. Ban ngày ta cũng ở ngay hào giao thông, tên địch nào mà ra suối lấy nước, ta dùng súng trường bắn tỉa, nên chúng phải dùng pháo từ xa, bắn ra ngoại vi sân bay khống chế ta. Vòng vây của quân ta càng siết chặt, phạm vi hoạt động của quân địch càng hẹp. Quân Pháp phải dùng máy bay thả dù tiếp tế. Máy bay xuống thấp thì bị cao xạ ta diệt, chúng phải thả từ trên cao nên hầu hết rơi vào vòng vây quân ta. Ban ngày ra lấy dù bị quân ta bắn, đến tối quân ta lại ra lấy.
Quân ra đi đoạt dù, người cuốn dù, hòm phải khiêng. Hòm các-tông là hòm lương thực, hai chiến sĩ khiêng nổi. Hòm sắt là hòm súng đạn, phải 3-4 chiến sĩ khiêng mới nổi. Đời sống của chúng tôi ngày càng dễ chịu, đầy đủ hơn lúc hành quân. Hòm đồ hộp làm giường nằm, dù làm chăn chiếu và căng cả dù lên trần hầm cho sạch.
Tiểu đội chúng tôi đang kiềm chế chặt sân bay Hồng Cúm thì được lệnh đi chặn quân tiếp viện ở Lào sang, nhiệm vụ ở sân bay Hồng Cúm giao cho đơn vị bạn. Tiểu đoàn 426 chúng tôi lại bí mật hành quân, đến Mường Hét đã gặp địch. Đơn vị kịp thời triển khai quân đánh chặn, chúng chết và bị thương nhiều, còn lại chạy tán loạn cả vào rừng. Chúng tôi tiếp tục truy kích lùng bắt tàn quân. Trận này tiểu đoàn chúng tôi diệt, làm bị thương, bắt sống nhiều tên địch, làm tan rã cả bốn tiểu đoàn Âu Phi của chúng. Tiểu đoàn 426 chúng tôi đang thu dọn chiến trường ở Mường Hét thì được tin quân địch ở Điện Biên Phủ đã đầu hàng. Chúng tôi được lệnh rút về lòng chảo Điện Biên trong khí thế tưng bừng chiến thắng.